Peridot Ý có màu xanh vàng chất lượng cao được tìm thấy dưới dạng khoáng chất Xenolith Manti trong đá Bazan ở gần thị trấn Pozzomaggiore, phía tây bắc Sardinia, nước Ý.
Peridot Ý được khai thác ở đâu?
Peridot được khai thác từ rất nhiều nơi trên toàn thế giới, nhưng nguồn cung cấp đá chất lượng đá quý quan trọng nhất là ở Zabargad (Ai Cập), Arizona (Hoa Kỳ), Myanmar, Trung Quốc, Việt Nam, Ethiopia, Tanzania, Pakistan (do Shigley và cộng sự phát hiện vào năm 1990, 2000 và Kane phát hiện năm 2004).
Vào năm 1989 và 1991, Bianchi Potenza cùng với các cộng sự của mình đã tìm thấy một số tinh thể Peridot Sardinia hấp dẫn ở Ý. Những viên đá được tìm thấy ở khu vực gần thị trấn Pozzomaggiore, gần thành phố Sassari, phía tây bắc Sardinia có chất lượng đá quý với trọng lượng trên 3 carat khi được mài giác.
Vào năm 1987, Dupuy và cộng sự đã tìm thấy các tinh thể Olivin xuất hiện ở dạng Xenolith Manti Peridotite trong đá núi lửa Plio-Pleistocene. Những Xenolith Manti này thường có đường kính lên tới 30 cm và chứa các thể vùi bên trong Peridot bao gồm: Olivin, Orthopyroxene, Clinopyroxene và Spinel.
Năm 1991, Bianchi Potenza và cộng sự cũng đã phát hiện một số lượng lớn Xenolith Manti Peridotite ở khu vực này khi các cuộc khai quật đang được thực hiện để xây dựng đường và các nốt sần này ở dạng khối dùng làm vật liệu xây dựng.
Đá Bazan có chứa Olivin đã trở nên phổ biến và được các nhà sưu tập khoáng sản Ý biết đến trong nhiều năm, mặc dù không có tài liệu nào thống kê về số lượng vật liệu đá quý đã khai thác cho đến nay.
Các tính chất vật lý và tính chất hóa học của Peridot Ý
Tính chất ngọc học của các mẫu Peridot Ý tương ứng với mẫu cùng khu vực trước đó theo báo cáo của Bianchi Potenza và cộng sự vào năm 1991. Đồng thời, các tinh thể Peridot Sardinia này cũng tương ứng với Peridot được khai thác từ các nguồn như Gübelin (1981), Koivula (1981 và 1986), Fryer (1986), Fuhrbach (1998), Kane (2004).
Màu sắc | Xanh vàng |
Chỉ số khúc xạ | nα: 1.650 – 1.652
nβ: 1.669 – 1.670 nγ: 1.688 – 1.690 |
Khối lượng riêng | 3.32 – 3.36 |
Vết nứt gãy | Các vết nút gãy được chữa lành một phần, chất lỏng tích tụ. Các thể vùi, tinh thể, mặt phẳng tăng trưởng, dấu vết của dạng tinh thể song sinh |
Quang học | Hai trục dương |
Huỳnh quang UV | Trơ |
Đa sắc | α và β xuất hiện màu xanh lục, còn γ xuất hiện màu xanh vàng |
Lưỡng chiết suất | 0.038 – 0.039 |
Bảng tính chất vật lý và tính chất hóa học của đá Peridot Ý
Phần lớn đá Peridot Ý sạch sẽ và ít chứa tạp chất bên trong. Các tạp chất phổ biến chứa hầu hết bên trong đá bao gồm các vết nứt gãy được hồi phục một phần, tạp chất lỏng, một số vết nứt quầng phân hủy có hình dạng từ tròn đến hình bầu dục và thường được gọi là các thể vùi “Lily pad”.
Các tinh thể nhỏ tối màu (tìm thấy được ba mẫu, có thể là Spinel), dạng tinh thể song sinh (tìm thấy được hai mẫu) và mặt phẳng tăng trưởng (tìm thấy được một mẫu).
Peridot là loại đá quý có chứa Olivin với công thức hóa học giống Forsterit (Fo) Mg2(SiO4) và Fayalit (Fa) dãy dung dịch rắn Fe2(SiO4). Hầu hết những viên Peridot Sardinia có chất lượng đá quý sẽ nằm trong phạm vi Fo(80 – 95)Fa(20 – 5) tại các nguồn như: Gübelin (1981), Nassau (1994), Krzemnicki và Groenenboom (2008).
Ngoài ra còn có một phân tích hóa học hai mẫu đá thô chỉ ra rằng thành phần trong tinh thể này là Fo91Fa9, điều này tương ứng với báo cáo của Bianchi Potenza cùng cộng sự ( năm 1991) và giống với Peridot Ý được khai thác từ nhiều nguồn khác nhau như: Stockton và Manson (1983), Gunawardene (1985), Fuhrbach (1998).
Vào năm 2008, Ishimaru và Arai đã phân tích cả hai mẫu vật này có hàm lượng MnO thấp (trung bình 0,13% khối lượng), NiO ở mức trung bình là 0,39 wt.% gần với giá trị tiêu chuẩn là 0,40 wt.% và thông tin này đã được báo cáo trong tài liệu về lớp phủ Olivin ở ~ Fo90Fa10. Kết quả này cho thấy tinh thể Peridot này phù hợp với các giá trị ước tính chỉ số khúc xạ của Deer cùng với các cộng sự vào năm 1982.
Theo báo cáo của Dupuy và cộng sự năm 1987, nguyên tố vi lượng phổ biến nhất được tìm thấy trong Olivin từ Xenolith Peridotite của khu vực Pozzomaggiore là Ca rồi đến thứ tự các nguyên tố như: Co, Cr, Na, Zn, B, Ti, Sc, V, Li.
Theo phân tích bằng quang phổ hồng ngoại IR cho thấy phụ thuộc vào thành phần và hàm lượng Fe của Peridot mà đá sẽ có dải hấp thụ nằm ở số sóng khác nhau như: 982, 954, 885, 838, 605, 503, 469 và 415 cm-1.
Phổ hấp thụ tia UV – Vis – NIR các mẫu đá với dải mạnh ở bước sóng 1050 nm và vai ~ 830 nm, trong phạm vi càng gần IR thì độ hấp thụ ngày càng tăng về phía vùng UV. Các dải yếu cũng hiện diện ở bước sóng 403, 450, 473, 490 và 635 nm. Các dải với tổng bước sóng dưới ~ 440 nm, chẳng hạn như: 450, 473 và 490 nm có thể nhìn thấy tốt bằng máy quang phổ cầm tay.
Tất cả những đặc điểm quang phổ này đã được quan sát thấy bởi Peridot của các địa điểm như: Kammerling và Koivula (1995), Führbach (1998) và đá có nguyên tố Fe2+ ở Burns (1970), vì sắt chính là yếu tố tạo nên màu sắc của tinh thể này. Tuy nhiên, một số dải được hấp thụ có thể do các nguyên tố khác chứa bên trong đá, chẳng hạn như Crom ở Rossman (1988).
Dựa trên cơ sở các mẫu được kiểm tra thì không thể phân biệt được đá Peridot Ý ở Sardinia với Peridot tại các địa phương khác.
Peridot được khai thác ở rất nhiều địa điểm trên thế giới, nhưng tinh thể có chất lượng đá quý và kích thước lớn thì khu vực gần thị trấn Pozzomaggiore nằm phía tây bắc Sardinia là nguồn cung cấp quan trọng nhất. Vì Peridot Ý có trữ lượng cao và kích thước lớn hơn so với tinh thể Peridot từ các địa điểm khác, nên loại đá này giữ được vị trí quan trọng trong cộng đồng đá quý ở Ý.