Peridot Việt Nam còn được thế giới biết đến với tên gọi Peridot Tây Nguyên, Peridot Gia Lai, Peridot Dak Nông hay Peridot Lâm Đồng. Các tỉnh Tây Nguyên Việt Nam là một trong những nguồn cung cấp lớn loại đá Peridot xanh lục cho thế giới. Ngày nay, các viên Peridot Việt Nam đủ chất lượng cắt đa cạnh làm trang sức với kích thước lớn đã không còn nhiều.
Nội Dung Bài Viết
Tổng quan về Peridot Việt Nam
Đá Peridot Việt Nam là một trong những loại đá nổi bật nhất mà Việt Nam sản xuất và cung cấp cho thị trường đá quý quốc tế. Những viên đá Peridot Việt Nam có đặc điểm và tính chất tương tự với các loại Peridot khác trên thế giới, chứa tạp chất xenolith trong bazan kiềm.
Những viên đá quý màu xanh lục này có nguồn gốc từ lherzolite Spinel, được hình thành với áp suất khoảng 2,0 ± 0,5 GPa, tương đương độ sâu 60km với nhiệt độ 910-980°C.
Peridot Việt Nam được phát hiện vào năm 1995 bởi hai nhà nghiên cứu nổi tiếng, Kammerling và Koivula tại Tây Nguyên. Những mẫu vật có chất lượng đá quý được tìm thấy tại các mỏ Gia Lai, Đăk Nông và Lâm Đồng.
Trang sức đá quý được chế tác từ Peridot Việt Nam đã xuất hiện trên thị trường đá quý hơn một thập kỷ qua, thu hút những người yêu thích đá quý trong và ngoài nước.
Tính chất vật lý và tính chất hóa học của Peridot từ các nguồn khác nhau
Các nguồn | Tây Nguyên | San Carlos, Arizona | Zabargad, Red Sea | Tanzania | China | Kibourne Hole, Mexico | Sardinia, Ý | Kohistan, Pakistan | ||
Tác giả | Quan sát từ những nghiên cứu này | Kammemrling và Koivula (1995) | Hương và cộng sự (2012) | Koivula (1981) | Gubelin (1981) | Stockton và Manson (1986) | Koivula và Fryer (1986) | Fuhrbach (1992) | Admo và cộng sự (2009) | Jan và Khan (1996) |
Tạp chất | Chứa Lily pad, Chromite, các thứ cấp và hercynite | Spinel Chromian, mica biotit, lily pad | Spinel sphalerit, lily pad | Cromit, chromian Spinel và lily pad | Chromite và lily pad | nr | Chromite, Biotite và lily pad | Hercynite, Forsterite, Diopside, biotit và lily pad | Các thể lỏng và thể vùi lily pad | nr |
Màu sắc | Trải dài từ xanh lục ánh vàng nhạt đến đậm và xanh lục ánh nâu | Trải dài từ xanh lục nhạt đến vừa, có ánh vàng hoặc nâu | Trải dài từ xanh lục ánh vàng đến xanh ô liu hoặc xanh ánh nâu | Trải dài từ nâu đậm đến xanh nâu và xanh chanh | Màu xanh lục đậm và xanh vàng nhạt | Màu xanh lục ánh vàng nhạt | Trải dài từ xanh lục ánh vàng nhạt đến đậm | Trải dài từ màu vàng đến cam, nâu hoặc xanh lục nhạt | Xanh lục ánh vàng | Trải dài từ màu vàng xanh lục nhạt đến đậm hoặc vàng ánh xanh |
Độ trong suốt | Mờ đục đến trong suốt | Trong suốt | Nửa trong suốt đến mờ đục | nra | nr | Trong suốt | nr | nr | nr | Trong suốt đến mờ đục |
Tính đa sắc | Yếu đến trung bình | Yếu, xuất hiện ánh nâu đến xanh lục ánh vàng | Yếu, xuất hiện ánh nâu đến xanh lục ánh vàng | nr | Yếu nhưng có thể xuất hiện màu xanh nhạt dọc theo α, xanh lục dọc theo β và xanh nhạt dọc theo γ | nr | nr | nr | Yếu đến trung bình α, β = xanh lục, γ = vàng xanh | Các mảng khoáng dày có màu lục và đa sắc có sơ đồ: β = xanh vàng, α = γ = xanh nhạt |
Ký tự quang học | Song trục dương | nr | Song trục âm | Song trục dương | Song trục dương | Song trục dương | nr | nr | Song trục dương | nr |
Chỉ số khúc xạ | nα= 1.650-1.667 | nα=1.650 | nα=1.650-1.652 | nα=1.649-1.653 | nα=1.650-1.654 | nα=1.650 | nα=1.653 | nα=1.654-1.673 | nα=1.650-1.652 | nα=1.644-1.653 |
nβ= 1.665-1.669 | nβ=1.665-1.667 | nβ=1.665-1.669 | nβ=1.665-1.671 | nβ=1.658 | nβ=1.670 | nβ=1.673-1.691 | nβ=1.669-1.670 | |||
nγ=1.686-1.703 | nγ=1.687-1.688 | nγ=1.686-1.690 | nγ=1.686-1.691 | nγ=1.686-1.690 | nγ=1.684 | nγ=1.689 | nγ=1.691-1.709 | nγ=1.688-1.690 | nγ=1.682-1.689 | |
Lưỡng chiết | 0.036 | 0.037-0.038 | 0.036-0.038 | 0.037-0.038 | 0.036 | nr | 0.036 | 3.42-3.50 | 3.32-3.36 | 3.26-3.44 |
Trọng lượng riêng | 3.28-3.49 | 3.34±0.01 | 3.32-3.37 | 3.28-3.38 | 3.34 | nr | 3.36 | 3.42-3.50 | 3.32-3.36 | 3.26-3.44 |
Huỳnh quang | nr | nr | nr | nr | nr | nr | ||||
Sóng dài | Trơ | Trơ | Trơ | Trơ | ||||||
Sóng ngắn | Trơ | Trơ | Trơ | Trơ | ||||||
anr: không có báo cáo |
Peridot Việt Nam: quá trình khai thác
Hiện nay, đá Peridot Việt Nam chỉ được khai thác duy nhất tại Gia Lai với hai mỏ Hàm Rồng và Biển Hồ, có trọng lượng lên đến 100kg mỗi tháng nhưng mẫu vật có chất lượng đá quý chỉ chiếm khoảng 15-20%.
Đá Peridot Tây Nguyên được khai thác ở quy mô nhỏ từ các sỏi phù sa hoặc các bao thể Peridot, bởi những người khai thác đá quý độc lập. Trong khi ở một số nơi, thợ mỏ phải đào hố sâu 3-5m mới có thể tìm thấy các lớp phù sa chứa Peridot.
Nguồn gốc Peridot Việt Nam
Tây Nguyên là một phần phía Tây của Việt Nam, nằm trong quy mô lớn của vành đai Trường Sơn, thuộc một phần của khối Đông Dương. Khu vực này chứa các loại đá nền của thời Liên đại Nguyên sinh, được che phủ từ thời sơ khai đến giữa kỷ Đại Cổ Sinh.
Các loại đá nền bao gồm đá biến chất dạng hạt, amphibolit và đá phiến, nằm ở dưới lớp đá phủ bao gồm đá trầm tích, sa thạch, bột kiến và đá phiến sét. Các loại đá nền và đá phủ bị xâm nhập bởi Granit, Granodiorit và Granosyenit, thuộc tổ hợp tạo núi Indosinian, tương tự Diorit và Granodiorit thuộc tổ hợp tạo núi Cretaceous.
Các tạp chất này được hình thành từ Kỷ Đại cổ sinh đến Kỷ Than Đá và Kỷ Tam Điệp, bị bao phủ bởi các đá trầm tích lục nguyên biến chất cấp độ thấp và các hợp chất tạo thành magma Kainozoi. Hợp chất tạo thành magma của Kỷ Đại Tân Sinh chứa thành phần bazan, được phân bố rộng rãi ở phía Đông và Đông Nam Á, đặc biệt là khu vực Biển Đông.
Các hợp chất bazan tập trung ở Tây Nguyên, xung quanh khu vực núi lửa phun trào khác nhau như Đà Lạt, Pleiku và Buôn Ma Thuột. Hầu hết, các khu vực núi lửa này đã phát triển trong hai giai đoạn phun trào. Giai đoạn đầu bao gồm khối lượng lớn các dòng thạch anh và Tholeiit Olivin, được phun ra từ các khe nứt. Sự phun trào của Tholeiit Olivin, bazan kiềm và basanit xuất hiện dọc theo các vết nứt gãy trượt bằng liên hợp pha sau.
Các khoáng chất ultramafic chứa đá Peridot có kích thước từ 5-40cm, được tìm thấy chủ yếu trong bazan kiềm ở các tỉnh Gia Lai, Đăk Nông, Lâm Đồng và Bà Rịa – Vũng Tàu. Trong khi các loại đá bazan chứa Peridot được thu thập từ các mỏ Biên Hồ và Hàm Rồng ở Gia Lai.
Đá bazan thường có màu xám đen với các tinh thể hình kim đồng nhất. Trong khi các tạp chất như Olivin, Plagioclase và hydroxit sắt được tìm thấy dưới dạng các tinh thể có kết cấu trachytic.
Tiêu chuẩn đánh giá chất lượng đá Peridot Việt Nam
Cấu trúc tinh thể
Các trầm tích chứa tinh thể Peridot Tây Nguyên không xuất hiện đơn lẻ và có đường kính dưới 1,5 cm. Trong khi, những mẫu vật Peridot Việt Nam có đường kính 4-6cm hiếm khi được tìm thấy.
Trải qua quy trình cắt Peridot và phân tích hóa học, các nhà nghiên cứu đã tìm thấy hàm lượng FeO trong Peridot Việt Nam tương đương với Peridot Sardinia, Peridot Myanmar, Peridot Arizona và cao hơn Peridot Tanzania, Peridot Zabargad. Trong khi hàm lượng FeO của Peridot Pakistan thấp và đa dạng hơn. Tuy nhiên, những viên đá Peridot Việt Nam có chất lượng thấp thường có hàm lượng Ca thấp hơn các loại Peridot khác.
Màu sắc
Đá Peridot Gia Lai có màu sắc trải dài từ xanh lục vàng nhạt đến xanh lục đậm, xanh ô liu và xanh lục nâu. Những viên đá được trải qua quá trình mài giác sẽ có màu xanh vàng hấp dẫn.
Đặc tính quang học: Các nhà nghiên cứu đã thử nghiệm 24 mẫu đá Peridot Dak Nông, sau đó nhận thấy chỉ số khúc xạ (RI) và SG thay đổi đôi chút theo màu sắc của đá quý. RI của mẫu có màu sáng nhất là α = 1,650, β = 1,665 và γ = 1,686, với độ lưỡng chiết tương ứng là 0,036. Trong khi mẫu vật tối nhất có RI là α = 1,667, β = 1,669 và γ = 1,703, với độ lưỡng chiết là 0,036.
Trọng lượng
Đá Peridot Việt Nam có trọng lượng dao động từ 3,28 đến 3,49 carat. Mẫu vật có trọng lượng càng cao càng chứa nhiều thể vùi bát diện cromit với màu xanh lục độc đáo.
Tạp chất
Đá Peridot Việt Nam chứa các tạp chất tương tự Xenolith hoặc bazan kiềm, có các thể vùi nổi bật với tinh thể màu đen mờ nằm ở vị trí trung tâm viên đá. Các vết nứt thứ cấp được chữa lành một phần với ánh kim cũng được tìm thấy phổ biến ở Peridot Việt Nam.
Các tinh thể cromit bát diện mờ đục được bao quanh bởi một quầng sáng trắng. Đôi khi, các thợ kim hoàn cũng tìm thấy tạp chất Hercynite, một thành viên của nhóm đá Spinel, bên trong Peridot Lâm Đồng
Các nhà nghiên cứu đã sử dụng máy đo địa nhiệt hạt đơn để tìm ra các tạp chất Al, Cr trong Olivin, giúp hình thành nên P-T trong đá Peridot Tây Nguyên. Họ phát hiện ra nồng độ Al, Cr, V, Sc, Ca và Na trong đá quý phụ thuộc vào nhiệt độ. Tương tự, các loại đá Peridot Garnet và Peridotite Spinel cũng chứa các tạp này.